fbpx
Chuyên đề KCBDa liễu chuyên sâuTin nổi bật

Dapsone hiệu quả trong điều trị viêm tuyến mồ hôi mủ

Người dịch: Quang Tiến

Tính an toàn và hiệu quả của dapsone trong điều trị bệnh viêm tuyến mồ hôi mủ (hidradenitis suppurativa – HS) đã được chứng minh theo dữ liệu nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Dermatologic Therapy.

Nghiên cứu quan sát hồi cứu này sử dụng dữ liệu từ những bệnh nhân mắc HS mức độ từ trung bình đến nặng đến khám tại một trung tâm da liễu ở Barcelona, ​​Tây Ban Nha. Đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân được điều trị bằng dapsone từ tháng 5/2015 đến tháng 6/2021. Đáp ứng lâm sàng với dapsone được đánh giá theo Thang điểm HiSCR (Hidradenitis Suppurativa Clinical Response). Chỉ tiêu chính là cải thiện lâm sàng ở tuần thứ 12, được xác định là giảm ≥ 50% tổng số áp xe và số nốt viêm so với thời điểm ban đầu mà không tăng thêm số lượng áp xe hoặc lỗ rò dẫn lưu. Các mô hình hồi quy logistic đa biến được sử dụng để xác định các mối tương quan của đáp ứng với dapsone.

Tập nghiên cứu bao gồm 56 bệnh nhân mắc HS, trong đó 66,1% là nam và 33,9% là nữ. Tuổi trung bình tại thời điểm ban đầu là 33,0 tuổi (tứ phân vị [IQR], 23,0-43,0); tuổi trung bình khi khởi phát HS là 17,0 tuổi (IQR, 15,0-21,0). Tại thời điểm bắt đầu điều trị với dapsone, 53,6% bệnh nhân mắc bệnh mức độ nhẹ, 23,2% mức độ vừa và 23,2% mức độ nặng.

Nhìn chung, 62,5% bệnh nhân đạt được đáp ứng lâm sàng sau 12 tuần điều trị. Trong đó đa số là những bệnh nhân mức độ từ nhẹ đến trung bình tại thời điểm ban đầu; chỉ có 30% bệnh nhân mức độ nặng đạt được đáp ứng ở tuần thứ 12. Xét nghiệm máu không cho thấy sự suy giảm hoạt động của glucose-6-phosphate dehydrogenase ở bất kỳ bệnh nhân nào. Các biến cố bất lợi (AE) đã được báo cáo ở 28,6% bệnh nhân và dẫn đến việc 8,9% bệnh nhân ngừng điều trị. Các AE thường gặp nhất là thiếu máu, buồn nôn, tiêu chảy và nhức đầu. Không xảy ra phản ứng nghiêm trọng.

Thời gian điều trị trung bình là 8 tháng (IQR, 3-14). Trong các mô hình hồi quy, sự hiện diện của các rãnh xoang có liên quan đến sự gia tăng tình trạng không đáp ứng điều trị ([OR], 5,5; [CI] 95%, 1,5-20,6; P = 0,12). Mặc dù bệnh nhân mức độ nặng ít đạt được đáp ứng điều trị hơn, nhưng mức độ nghiêm trọng của bệnh không phải là yếu tố chính để dự báo về việc không đáp ứng điều trị trong các mô hình đã được điều chỉnh đầy đủ.

Dapsone thường được coi là phương pháp điều trị thứ ba cho HS dù rằng có rất ít nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thuốc này. Dữ liệu từ phân tích hiện tại chứng minh tính hiệu quả và an toàn của dapsone trong thực hành lâm sàng.

Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm thiết kế không có nhóm chứng và hồi cứu, cũng như quy mô nhóm thuần tập nhỏ. Các nhà điều tra tin rằng các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng sẽ có thể khám phá tốt hơn tính khả thi của dapsone trong điều trị HS.

Nghiên cứu kết luận “Dapsone là một phương pháp điều trị hiệu quả và được dung nạp tốt dành cho bệnh nhân HS mức độ nhẹ và trung bình. Những bệnh nhân mức độ nặng, giai đoạn Hurley III có rãnh xoang và kiểu hình LC1 chiếm ưu thế không được hưởng lợi từ loại thuốc điều trị này”.

Nguồn: dermatologyadvisor.com

Show More

Related Articles

Back to top button