Nghiên cứu hiệu quả của công nghệ Laser Picosecond bước sóng 730 nm trong điều trị xoá đồi mồi
Nguồn: dermatologytimes.com, 14/9/2021
Người dịch: Quang Tiến, 21/9/2021
Một nghiên cứu theo thời gian được Hội đồng đạo đức phê duyệt công bố trên tạp chí Lasers in Surgery and Medicine đã điều tra tính an toàn và hiệu quả của công nghệ Laser Picosecond bước sóng 730nm trong việc xoá đồi mồi và cách các xung picosecond ngắn ảnh hưởng đến mô da.
Có 20 bệnh nhân với loại da II-IV theo phân loại Fitzpatrick đăng ký tham gia thử nghiệm và nhận được 4 lần điều trị laser. Ảnh được chụp trước và sau khi điều trị sau đó được đánh giá khách quan ở các lần tái khám sau 4 và 12 tuần theo Thang điểm đánh giá mức làm sạch 5 bậc, và sự hài lòng của bệnh nhân được đo theo thang điểm 5 bậc. Thang điểm đánh giá mức làm sạch 11 bậc IGIS (investigator Global Improvement Score) cũng được sử dụng ở lần tái khám sau 4 và 12 tuần. Mức độ đau của bệnh nhân được đo từ 0 (không đau) đến 10 (cực kỳ đau) và mô học của các xung picosecond bước sóng 730 và 532 nm được so sánh với các xung nanosecond bước sóng 755 và 532 nm.
Trong số 20 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, 16 bệnh nhân đã hoàn thành tất cả các cuộc thăm khám nghiên cứu, với độ tuổi trung bình 63 tuổi, 75% là nữ và 25% là nam. 16 bệnh nhân này có 118 khu vực điều trị, mỗi vùng bao gồm 1 đến 20 tổn thương và 30 vùng cơ thể được nghiên cứu (cánh tay (6), bàn tay (16), da đầu (1), trán (2), mặt (3) và lưng (2)). Kích thước đốm đồi mồi có đường kính từ 2 đến 5 mm sử dụng mật độ năng lượng từ 0,8 đến 4,0 J/cm2.
Điểm đánh giá mức độ đau trung bình là 3,6/10 cho một trong bốn phương pháp điều trị mà bệnh nhân nhận được. Khi các ảnh chụp vùng da điều trị được đánh giá khách quan, chỉ có 01 ảnh ở thời điểm tại tuần điều trị thứ 04 bị xác định nhầm là ảnh sau khi hoàn thành điều trị, như vậy 99% các ảnh chụp kết quả sau 4 tuần điều trị và 100% ảnh sau 12 tuần điều trị được ghép ngẫu nhiên chính xác.
Điểm IGIS trung bình là 6,7 ở lần theo dõi sau 4 tuần và 7,0 ở lần theo dõi sau 12 tuần với lần lượt là 76% và 73% bệnh nhân đạt mức độ hài lòng và rất hài lòng. Điểm đánh giá mức làm sạch trung bình cho 118 khu vực điều trị là 3/4 tại các lần tái khám. Vào lần tái khám sau 12 tuần, 36% trong số 118 khu vực điều trị có điểm đánh giá mức làm sạch là 4 và 38% đạt điểm 3. Các biến cố bất lợi (adverse events – AEs) được các tác giả nghiên cứu đánh giá là điển hình bao gồm nổi ban đỏ, phù nề, khô da, đóng vảy và ngứa da.
Theo các tác giả, với các xung picosecond bước sóng 730 nm, nghiên cứu mô học cho thấy xuất hiện không bào biểu bì khu trú, lan toả với đường kính ~ 5 – 10 µm và có sự thoát mạch nhẹ của hồng cầu, trong khi với các xung nanosecond bước sóng 755nm, họ quan sát thấy sự xuất hiện không bào biểu bì khuếch tán với đường kính ~ 20 -100 µm, tách đường nối da – biểu bì và có sự thoát mạch nhẹ của hồng cầu.
Các tác giả nghiên cứu cho biết “Xung picosecond bước sóng 532 nm tạo ra sự xuất hiện không bào biểu bì khuếch tán, khu trú và không bào biểu bì lớn hơn ở độ sâu 500 µm, trong khi các xung nanosecond bước sóng 532 nm tạo ra không bào biểu bì khuếch tán với sự liên kết của không bào và xuất huyết da rõ ràng.”
Theo nghiên cứu, công nghệ laser picosecond bước sóng 730 nm đã cho thấy tiềm năng trong điều trị xoá đồi mồi, với mức độ làm sạch tốt, an toàn và sự hài lòng của bệnh nhân với loại da II-III. Theo các tác giả, nghiên cứu mô học cho thấy công nghệ laser này có khả năng chọn lọc tuyệt vời sắc tố với sự gián đoạn đường nối da – biểu bì tối thiểu và có thể giúp giảm thời gian chữa lành hoặc giảm các biến cố bất lợi. Ngoài ra, các tác giả nghiên cứu đề nghị cần tiến hành điều tra thêm trên các tông màu da tối hơn.
Study: 730 nm Picosecond Laser for Treatment of Lentigines
A prospective, IRB-approved study published in theLasers in Surgery and Medicine journal investigated the safety and efficacy of the 730nm picosecond-domain laser for the clearance of lentigines and how the short picosecond pulses affect the tissue histologically.
There were 20 patients with Fitzpatrick skin types II-IV enrolled in the trial and they received 4 treatments from the laser. Photos were taken before and after treatment then assessed by blinded reviewers at 4- and 12-week follow-up visits by a 5-point clearance scale, and patient satisfaction was measured on a 5-point scale. An investigator Global Improvement Score (IGIS) was evaluated with an 11-point clearance scale at the 4- and 12-week follow-up, also. The patients pain level was measured from 0 (no pain) to 10 (extreme pain) and the histology of 730 and 532 nm picosecond pulses was compared to 755 and 532 nm nanosecond pulses.
Out of the 20 patients enrolled, 16 completed all the study visits, with a mean age of 63 years and 75% were female and 25% were male. These 16 patients had 118 treatment areas, each of which included 1 to 20 lesions and 30 body regions were studied (arms (6), hands (16), scalp (1), forehead (2), face (3), and back (2)). The spot sizes ranged from 2 to 5 mm diameters were used with fluences ranging from 0.8 to 4.0 J/cm2.
The mean pain score was 3.6 out of 10 for each of the 4 treatments that the patients received. When the photos of the treated skin were assessed by the blind investigators, only 1 photo at 4 weeks were misidentified as a post treatment photo, leading to 99% of randomly paired 4-week posttreatment images and 100% of 12-week posttreatment images were correctly identified.
The mean scores of IGIS were 6.7 at the 4 week follow up and 7.0 at the 12 week follow up visits with 76% and 73% of patients respectively were satisfied to highly satisfied. The mean clearance score for the 118 treatment areas was 3 of 4 at follow up visits. At the 12 week follow up, 36% of the 118 treatment areas has a clearance score of 4 and 38% had a score of 3. The adverse event (AEs) experienced were considered typical by study authors and included erythema, edema, dryness, crusting, and itching.
Histology showed diffuse, focal epidermal vacuolization ~5–10 µm in diameter and mild extravasation of erythrocytes with 730 nm picosecond pulses, according to the study authors, while diffuse epidermal vacuolization was observed in the joining of vacuoles (~20–100 µm), junctional clefting and mild extravasation of erythrocytes with 755 nm nanosecond pulses.
“Picosecond pulses of the wavelength of 532 nm produced diffuse, focal epidermal vacuolization and larger dermal vacuoles to depths of 500 µm, while 532 nm nanosecond pulses produced diffuse epidermal vacuolization with coalescence of vacuoles and marked dermal hemorrhage,” wrote study authors.
The 730 nm picosecond-domain laser for the clearance of lentigines has shown potential for treatment according to the study, which good clearance, safety, and patient satisfaction in patients with skin type II-III. The histology found the laser produces excellent selectively for pigment with minimal disruption of the dermal-epidermal junction and may reduce healing times or AEs, according to the study authors.
Further investigation needs done on darker skin tones, according to the study authors.
Source: dermatologytimes.com, 14/9/2021