So sánh hiệu quả điều trị bệnh Rosacea của thuốc minocycline phóng thích kéo dài và doxycycline
Người dịch: Quang Tiến
Theo kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Journal of Clinical and Aesthetic Dermatology, bệnh nhân mắc rosacea sẩn, mụn mủ (papulopustular rosacea – PPR) được điều trị bằng DFD-29 40 mg – một loại thuốc viên nang uống phóng thích kéo dài minocycline – cho thấy hiệu quả điều trị cao hơn đáng kể so với những người uống giả dược, DFD – 29 20 mg, hoặc doxycycline 40 mg.
Đây là một nghiên cứu nhãn mở, đơn trung tâm phân tích công dụng của thuốc viên nang DFD-29 phóng thích kéo dài 20 mg và 40 mg trong điều trị bệnh nhân PPR. Tổng cộng 24 bệnh nhân (từ 18 đến 45 tuổi), được chỉ định ngẫu nhiên uống DFD-29 40 mg, DFD-29 20 mg, hoặc doxycycline phóng thích biến đổi 40 mg, 01 lần/ngày trong 21 ngày trong lúc đói. Các mẫu huyết tương được lấy trong khoảng thời gian 24 giờ vào ngày thứ nhất và ngày thứ 21 để phân tích dược động học (pharmacokinetic – PK).
Vào ngày thứ nhất, nồng độ huyết tương trung bình cho thấy mức huyết tương tương tự ở các nhóm bệnh nhân được điều trị bằng DFD-29 40 mg và doxycycline 40 mg, và khoảng một nửa số bệnh nhân được điều trị bằng DFD-29 20 mg có mức huyết tương tương tự nhóm DFD-29 40 mg. Ở ngày thứ 21, phơi nhiễm doxycycline trong huyết tương đã tăng từ 4377,5 ng.h/mL lên 6074,8 ng.h/mL. Lưu ý rằng nhóm bệnh nhân uống DFD-29 hàng ngày giữ mức minocycline tương đối ổn định trong suốt 21 ngày (DFD-29 40 mg, ngày 1 = 3549,6 ng.h/mL và DFD-29 40 mg, ngày 21 = 3957,6 ng.h/mL). Các kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ DFD-29 trong huyết tương không vượt quá ngưỡng kháng sinh dự đoán và do đó giảm khả năng gây kháng thuốc.
Nghiên cứu mù đôi, đa trung tâm giai đoạn 2 kéo dài 16 tuần thực hiện trên bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên; các tiêu chí đánh giá là Điểm IGA mức 2 – 4 (nhẹ – nặng), 10 đến 40 tổn thương viêm trên da mặt (sẩn và mụn mủ; từ 2 nốt trở xuống), và điểm CEA (Clinician’s Erythema Assessment) từ 5 đến 20 đánh giá tình trạng nổi ban đỏ từ trung bình đến nặng. Bệnh nhân được cho uống DFD-29 40 mg, DFD-29 20 mg, doxycycline 40 mg, hoặc giả dược 01 lần/ngày trong 16 tuần.
Điều trị với DFD-29 40 mg đạt điểm IGA cao hơn đáng kể so với giả dược ở tuần 16 (66,04% so với 11,54%). DFD-29 40 mg cũng đạt điểm IGA cao hơn đáng kể so với cả doxycycline 40 mg và DFD-29 20 mg. DFD-29 40 mg cũng được chứng minh là có hiệu quả hơn trong việc giảm tổn thương so với điều trị bằng giả dược, DFD-29 20 mg và doxycycline 40 mg. Hơn nữa, trong nhiều thử nghiệm lâm sàng, doxycycline 40 mg đã được thử nghiệm trên bệnh nhân PPR từ trung bình đến nặng và đều giúp giảm số lượng tổn thương từ 10 đến 14 tổn thương sau 16 tuần. Nghiên cứu cho biết điều trị DFD-29 40 mg giúp giảm trung bình 19 nốt sẩn và mụn mủ trong cùng một khoảng thời gian, hoặc “nhiều hơn đáng kể” so với kết quả đạt được với doxycycline.
Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm chỉ số nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) và nồng độ huyết tương đối với dữ liệu ngưỡng kháng khuẩn là các giá trị trung bình; những bệnh nhân hấp thụ nhanh hoặc chuyển hóa chậm có thể vượt quá ngưỡng, gây ra áp lực chọn lọc kháng thuốc.
Dựa trên các dữ liệu thu được, các nhà nghiên cứu kết luận “DFD-29 40 mg cung cấp hiệu quả điều trị vượt trội so với giả dược và doxycycline 40 mg trong việc cải thiện tình trạng bệnh rosacea sẩn, mụn mủ. Đánh giá phân tích PK chỉ ra DFD-29 có nguy cơ hoạt động kháng khuẩn thấp, duy trì mức dưới ngưỡng MIC dự đoán.”
Nguồn: dermatologyadvisor.com