fbpx
Chuyên đề KCBDa liễu chuyên sâuTin nổi bật

Nghiên cứu: Hiệu quả của thuốc roflumilast dạng bọt trong điều trị bệnh vẩy nến và viêm da dầu

Người dịch: Quang Tiến

Hai nghiên cứu về thuốc roflumilast dạng bọt (ARQ-154, Arcutis Biotherapeutics Inc) đã được báo cáo tại Hội nghị Da liễu Châu Âu (EADV) thường niên lần thứ 30 diễn ra từ ngày 29/9 đến ngày 2/10.

Roflumilast, một thuốc ức chế phosphodiesterase-4 có chọn lọc và hiệu lực cao, hiện chỉ được sản xuất dưới dạng thuốc uống điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), đang được nghiên cứu để dùng trong điều trị một số bệnh da liễu.

Nghiên cứu đầu tiên được giới thiệu đang ở giai đoạn 2a ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với tá dược trong 8 tuần (NCT04091646) đánh giá hiệu quả của thuốc roflumilast dạng bọt 0,3% dùng 01 lần/ngày điều trị cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh viêm da dầu (seborrheic dermatitis – SD) mức độ từ trung bình đến nặng. Theo nghiên cứu, các phương pháp điều trị tại chỗ hiện tại dành cho bệnh SD là thuốc kháng nấm, steroid, thuốc điều hòa miễn dịch và dầu gội trị gàu.

Bệnh nhân đủ điều kiện tham gia nghiên cứu là những người từ 18 tuổi trở lên với chẩn đoán lâm sàng mắc bệnh SD trong thời gian ít nhất 3 tháng, có điểm IGA (Investigator Global Assessment) ³ 3 (mức trung bình) và xuất hiện tổn thương tại £ 20% diện tích bề mặt cơ thể (BSA), bao gồm da đầu, mặt, thân người và/hoặc các vùng kẽ.

226 bệnh nhân được chia nhóm ngẫu nhiên theo tỉ lệ 1:2 gồm nhóm bôi thuốc roflumilast dạng bọt 0,3% (n=154) và nhóm bôi tá dược dạng bọt (n=72) 01 lần/ngày vào các tổn thương do bệnh SD. Hai nhóm có nhân khẩu học tương tự nhau. Nhóm đối tượng ITT (intent-to-treat – phân bổ theo ý định điều trị) bao gồm tất cả các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, trong khi nhóm mITT (ITT đã điều chỉnh) bao gồm tất cả các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên ngoại trừ 2 bệnh nhân không được đánh giá điểm IGA Tuần 8 do mắc COVID-19.

Phân tích hiệu quả chủ yếu dựa trên nhóm mITT và được lặp lại cho nhóm ITT. Chỉ tiêu chính về tính hiệu quả được phân tích bằng cách sử dụng phương pháp Cochran-Mantel-Haenszel được phân tầng theo địa điểm nghiên cứu và mức độ bệnh tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu; ý nghĩa thống kê được kết luận ở mức 10% (2 phía).

92% trong tổng số bệnh nhân đã hoàn thành nghiên cứu. Thuốc roflumilast dạng bọt 0,3% cho thấy sự cải thiện đáng kể và nhanh chóng tình trạng bệnh SD với 33,8%, 56,6% và 73,8% bệnh nhân trong nhóm điều trị đạt kết quả thành công (được định nghĩa là đạt mức điểm rõ ràng hoặc gần như rõ ràng và tăng ít nhất 2 bậc so với ban đầu) tương ứng tại tuần thứ 2, 4 và 8. Ngoài ra, thuốc roflumilast 0,3% cải thiện đáng kể tình trạng ban đỏ, tróc vảy và ngứa. Nó cũng làm giảm tỷ lệ BSA bị ảnh hưởng do bệnh SD và cải thiện điểm Chất lượng cuộc sống (DLQI).

Nghiên cứu cho thấy biến cố bất lợi (AE) và biến cố bất lợi liên quan đến điều trị (TRAE) đều có tỷ lệ thấp. Tỷ lệ không tiếp tục do AE tương tự giữa các nhóm bôi tá dược và roflumilast và không có AE nghiêm trọng. TRAE phổ biến nhất là viêm da tiếp xúc (1,9%), mất ngủ (1,9%) và viêm mũi họng (1,9%) đối với nhóm bôi roflumilast. Dưới 1% bệnh nhân ở nhóm được điều trị bằng roflumilast cảm thấy đau hoặc nóng rát tại chỗ bôi thuốc.

Nghiên cứu còn lại được giới thiệu là một nghiên cứu giai đoạn 2b ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với tá dược trong 8 tuần (NCT04128007) đánh giá hiệu quả của thuốc roflumilast dạng bọt 0,3% dùng 01 lần/ngày như một lựa chọn điều trị cho bệnh nhân vẩy nến. Bệnh nhân đủ điều kiện là những người ³ 12 tuổi bị bệnh vẩy nến da đầu và toàn thân trong ít nhất 6 tháng.

304 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 2:1 vào nhóm bôi roflumilast dạng bọt 0,3% (n=200; 198 đã được điều trị) và nhóm bôi tá dược (n=104). Hầu hết bệnh nhân (83,7% đến 88,5%) đã hoàn thành nghiên cứu.

Chỉ tiêu chính đánh giá tính hiệu quả là điểm S-IGA (IGA da đầu), được xác định là những bệnh nhân đạt điểm S-IGA 0/1 (rõ ràng hoặc gần như rõ ràng) và tăng 2 bậc so với thời điểm bắt đầu ở tuần thứ 8. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả được phân tích bằng phương pháp Cochran-Mantel-Haenszel, xử lý các dữ liệu bị thiếu trong đánh giá điểm S-IGA và B-IGA (IGA toàn thân) tại thời điểm bắt đầu bằng phương pháp thay thế lặp (multiple imputation – MI).

Thuốc roflumilast cải thiện đáng kể vẩy nến tại da đầu (17,4%, 41,3%, 59,1%) và toàn thân (9,5%, 21,3%, 40,3%) lần lượt ở tuần thứ 2, 4 và 8, đồng thời cải thiện đáng kể tình trạng ngứa tại da đầu (44,6%, 62,0 %, 71,0%) và toàn thân (45,3%, 57,0%, 68,2%) từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 8. Ngoài ra, thuốc roflumilast đã cải thiện đáng kể mức độ và gánh nặng của tình trạng ngứa được bệnh nhân báo cáo dựa trên công cụ PSD (Psoriasis Symptom Diary) mục 1 (Mức độ Ngứa, -59,6% vào tuần 8) và mục 2 (Gánh nặng ngứa, -60,6% vào tuần 8). Nó cũng giúp cải thiện chất lượng cuộc sống theo thang điểm DLQI.

Có 23,2% bệnh nhân xuất hiện các biến cố bất lợi yêu cầu cấp cứu (TEAE). Các TEAE phổ biến nhất là đau tại chỗ bôi thuốc, COVID-19, vẩy nến, viêm xoang, tăng huyết áp và tiêu chảy.

Cả hai nghiên cứu đều cho thấy roflumilast được dung nạp tốt và có hiệu quả, có thể cần thêm các nghiên cứu sâu hơn.

Nguồn: dermatologytimes.com

Show More

Related Articles

Back to top button