fbpx
Điểm tin y tếTin nổi bậtTin tức - Sự kiện

Tỷ lệ tử vong do ung thư tế bào hắc tố giảm mặc dù tỷ lệ mắc bệnh tăng

Người dịch: Quang Tiến

Theo một nghiên cứu mới dựa vào cơ sở dữ liệu SEER của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ từ năm 1975 đến 2019, tỷ lệ tử vong do ung thư tế bào hắc tố đã giảm trong những năm gần đây, có thể là do sự ra đời của các loại thuốc ức chế miễn dịch.

Bác sĩ Navkirat Kaur Kahlon, tác giả chính của nghiên cứu này, chuyên gia về huyết học/ung thư tại Đại học Toledo (Ohio), cho biết “Đây là dữ liệu rất đáng khích lệ và thể hiện hiệu quả thực tế của các liệu pháp này. Chi phí cao có thể gây khó cho việc tiếp cận, vì vậy cần có biện pháp hỗ trợ khả năng tiếp cận các liệu pháp này và chi phí điều trị khác”. Nghiên cứu được trình bày tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ.

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong trong 5 năm đối với ung thư tế bào hắc tố di căn khu vực là 68%, và di căn xa là 30%. Tuy nhiên, những con số này có thể đánh giá chưa đúng kết quả hiện tại “Những người được chẩn đoán mắc ung thư tế bào hắc tố có thể có triển vọng tốt hơn những gì con số này thể hiện. Các phương pháp điều trị đã và đang được cải thiện theo thời gian, và tỷ lệ này chỉ dựa trên những người đã được chẩn đoán và điều trị ít nhất 5 năm trước đó”.

Các nghiên cứu khác cũng cho thấy xu hướng tương tự. Theo Cancer Research UK, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của bệnh nhân ung thư tế bào hắc tố tăng gần gấp đôi, từ 46% lên 90%, từ năm 1971 đến 2010. Và, tỷ lệ sống sót sau 1 năm tăng từ 74% lên 96%, nhưng những cải thiện này đạt được trước khi các thuốc ức chế miễn dịch xuất hiện. Một phân tích của Cơ quan Quản lý Bệnh ung thư Canada cho thấy tỷ lệ mắc ung thư tế bào hắc tố ngày càng tăng, nhưng tỷ lệ tử vong lại giảm kể từ năm 2013. Một nghiên cứu khác về kết quả điều trị ung thư tế bào hắc tố ở Hungary cũng cho thấy tỷ lệ mắc bệnh tăng lên, trong khi tỷ lệ tử vong giảm 16,55% từ năm 2011 đến 2019 (P = 0.013).

Bác sĩ Kahlon nói “Những loại thuốc mới này, bao gồm liệu pháp miễn dịch và liệu pháp nhắm đích, là những phương pháp điều trị hiệu quả theo dữ liệu thử nghiệm lâm sàng, vì vậy mức độ giảm tỷ lệ tử vong trong dân số không có gì đáng ngạc nhiên mà rất thú vị,”.

Những phát hiện này rất đáng khích lệ, nhưng phòng ngừa vẫn là chiến lược quan trọng nhất. Bà nói thêm “Nên khuyến khích các biện pháp chống nắng hiệu quả”.

Phương pháp hóa trị gây độc tế bào có hiệu quả kém đối với ung thư tế bào hắc tố di căn, nhưng các liệu pháp mới như thuốc ức chế miễn dịch đã tăng thời gian sống sót mong đợi từ vài tháng lên thành nhiều năm. Bác sĩ Kahlon cho rằng “Với lợi ích to lớn so với hóa trị liệu truyền thống trong các thử nghiệm lâm sàng, chúng tôi quyết định tìm hiểu xem liệu bệnh nhân thực tế có nhận được lợi ích tương tự hay không”.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong do ung thư tế bào hắc tố (melanoma mortality rate – MMR) có mức thay đổi hàng năm (annual percentage change – APC) là + 1,65% từ năm 1975 đến năm 1988 (P <0,01). APC từ năm 1988 đến 2013 là 0,01%, không có ý nghĩa thống kê (P = 0,85). Từ năm 2013 đến năm 2017, APC là – 6,24% (P <0,01) và là – 1,56% từ năm 2017 đến năm 2019 (P = 0,53).

Sự gia tăng tỷ lệ tử vong do ung thư tế bào hắc tố từ năm 1975 đến năm 1988 có thể là do những thay đổi trong cách thu thập dữ liệu SEER “Có thể sự gia tăng này ít nhất một phần do việc thu thập dữ liệu tốt hơn. Cũng có thể có một phần đóng góp của việc tăng tỷ lệ tử vong do tăng tỷ lệ chẩn đoán liên quan đến tăng phơi nhiễm tia cực tím. Từ những năm 1920, việc tăng cường tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và làn da màu đồng trở thành mốt. Trong những năm 1940-1960, các loại dầu và kem dưỡng da để tắm nắng trở nên phổ biến hơn, và mức độ tiếp xúc với tia cực tím cũng nhiều hơn, điều này sau đó dẫn đến số lượng bệnh nhân được chẩn đoán gia tăng nhưng thiếu các liệu pháp điều trị hiệu quả nên bị tử vong. Ngoài ra, việc sử dụng giường tắm nắng trong nhà từ những năm 1970 trở đi có thể góp phần làm tăng khả năng phơi nhiễm tia cực tím, tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong”.

Mặt khác, các nhà nghiên cứu ghi nhận sự giảm tỷ lệ tử vong chậm lại từ năm 2017 đến năm 2019. Đây không phải là một điều ngạc nhiên, Tiến sĩ Kahlon nói, vì vào thời điểm đó hầu hết các liệu pháp mới đang được sử dụng nhằm điều trị bổ trợ. Bác sĩ Kahlon giải thích “Tỷ lệ tử vong giảm, nếu có, nhờ vào các phương pháp điều trị bổ trợ được nhìn thấy trong một thời gian dài hơn và có thể chưa được ghi lại trong dữ liệu SEER. Ngay cả dữ liệu thử nghiệm lâm sàng cho hầu hết các phương pháp điều trị này cũng không cho thấy tỷ lệ sống sót tổng thể tăng và cần thêm thời gian để dữ liệu hoàn thiện. Chúng tôi rất mong chờ quan sát những xu hướng này sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai gần”.

Nguồn: mdedge.com,

Show More

Related Articles

Back to top button