Báo cáo nhân một trường hợp lâm sàng: Eczema Herpeticum
Bùi Thị Hồng Nhụy
GIỚI THIỆU
Eczema herpeticum (EH) được mô tả vào năm 1887 bởi Moritz Kaposi là do HSV1 và HSV2, vi rút đậu mùa và vi rút coxsackie A16, trên nền một bệnh da có trước thường là viêm da cơ địa. Đôi khi viêm da tiết bã hoặc bệnh da khác như bệnh Darier, bệnh pemphigus gia đình lành tính, pemphigus vảy lá, mycosis fungoid, hội chứng Sezary hoặc vảy cá thông thường và trong các thủ thuật như mài da, điều trị LASER và bệnh nhân bỏng độ 2 dễ bị EH.
Lâm sàng EH biểu hiện ban đỏ, mụn nước và mụn mủ có thể lõm giữa. Những mụn nước và mụn mủ xảy ra chủ yếu trên những vùng da bị bệnh da trước đó nhưng cũng có xuất hiện vùng da bình thường. Mặt thường bị ảnh hưởng nặng và có thể phù nề. Có thể sốt và suy nhược. Khi bệnh được phát hiện sớm có thể được điều trị dễ dàng và hiệu quả bằng các thuốc kháng vi rút.
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
– Bệnh nhân nữ 36 tuổi vào viện ngày 24/11/2018 với lý do đau nhức và nổi các mụn nước ở mặt.
– Bệnh sử: Bệnh phát trước ngày nhập viện 4 ngày, khởi đầu bệnh nhân thấy ngứa vùng má trái sau đó đỏ da và nổi mụn nước có lõm ở giữa sau đó bệnh lan ra khắp cả mặt, mụn nước xẹp khô để lại sẩn đóng vảy tiết ở giữa, kèm đau nhức nhiều. Bệnh nhân có khám tại trung tâm da liễu quảng ngãi và sau đó chuyển vào bệnh viện Phong da liễu trung ương Quy Hòa điều trị .
– Tiền sử :
+ Bệnh nhân không có bệnh da trước đó.
+ Trước đó bệnh nhân có dùng mỹ phẩm bôi không rõ loại.
+Bệnh nhân đang có thai 11 tuần.
– Bệnh nhân vào viện trong tình trạng tỉnh táo, tiếp xúc tốt, mạch: 76 lần / phút, HA: 110/70 mmHg, nhiệt độ: 37,1oC.
– Triệu chứng cơ năng đau nhức nhiều và ngứa ít vùng mặt.
Thương tổn cơ bản: Mụn nước có lõm giữa kích thước 0,3 cm, phân bố vùng xung quanh miệng, dưới mắt, đa số các thương tổn là các sẩn có vảy tiết ở giữa, kích thước 0,3 cm tương đối đều nhau trên nền da đỏ phù nề, phân bố đều cả mặt.
Các cơ quan khác bình thường.
Các xét nghiệm đã làm:
– Hồng cầu: 3,48 x 1012/ l, BC : 8,7 x 109/ l, TC : 229 x109/l.
-Ure : 2,3 mmol/l; Glucose: 5,8 mmol/l; creatinin: 52 µmol/l; SOT: 27 U/l; GPT: 22,6 U/l; Kali: 2,8 mmol/l; Natri: 96,5mmol/l; clo:132mmol/l.
– Nhuộm soi không thấy vi khuẩn, không thấy Demodex, không thấy nấm.
– Tzank test: Tìm thấy tế bào đa nhân không lồ .

– PCR: HSV –DNA và định type PCR: HSV1 –DNA: Dương tính

– Siêu âm lòng tử cung có một thai khoảng 11 tuần đang tiến triển
– HIV: âm tính.
– Chẩn đoán: Herpes dạng chàm ( eczema herpeticum)/ phụ nữ có thai 11 tuần.
– Chẩn đoán phân biệt :
+ Viêm da tiếp xúc.
+ chốc
– Điều trị:
+ Kháng sinh Amoxilin
+ Kháng histamin clopheniramin
+ Sắt
+ Pracetamol
+ Thuốc bôi kháng sinh , hồ nước
+ Bệnh nhân đang có thai nên chúng tôi đã không sử dụng Acyclovir
Sau 10 ngày điều trị bệnh nhân sạch thương tổn

BÀN LUẬN
EH được mô tả vào năm 1887 bởi Moritz Kaposi. Bệnh thường nhẹ và khu trú, biểu hiện đỏ da trên nền bệnh da như AD, viêm da tiết bã nhờn, bệnh Darier, pemphigus gia đình lành tính, pemphigus vảy lá, mycosis fungoids, hội chứng Sezary hoặc bệnh vảy cá thông thường. Tỷ lệ thực sự của EH không được biết chính xác vì sự hiếm gặp của nó và thiếu các nghiên cứu quy mô lớn.
EH ban đầu được coi là một bệnh của trẻ sơ sinh và nó vẫn còn phổ biến hơn ở trẻ em, nhưng nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. EH có thể xảy ra cả nguyên phát hoặc tái phát. Đa số bệnh nhân bị EH nguyên phát là trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ. EH nguyên phát có thể là bệnh nghiêm trọng với nhiễm vi rut máu, ngoại trừ ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.
Sinh bệnh học chính xác của EH không rõ ràng. Nó được suy đoán rằng một chức năng rào cản của thượng bì bị suy yếu và vật chủ thiếu hụt phản ứng miễn dịch là những yếu tố tăng tính nhạy cảm với EH. Trong một nghiên cứu hồi cứu 100 bệnh nhân EH, Wollenberg và cộng sự thấy rằng tăng nồng độ IgE huyết thanh và khởi phát sớm AD là cả hai yếu tố nguy cơ. Thiếu hụt miễn dịch tế bào T cũng có thể dẫn đến EH.
Một nghiên cứu gần đây của Howell và cộng sự kết luận rằng peptid cathlecidine; LL-37 có thể thiếu ở bệnh nhân AD, có thể giải thích tăng nhạy cảm với EH.
Bệnh này khởi đầu là những cụm mụn nước, mụn mủ lõm giữa kèm theo một hội chứng giống như cúm. Sau đó những mụn mủ này có thể đau, xuất huyết, đóng vảy tiết, chợt loét và liên kết với nhau hình thành những mãng chợt loét dễ bị nhiễm khuẩn thứ phát. Mặc dù HSV lây lan do nhiễm trùng hạt bụi hoặc do tiếp xúc trực tiếp, nhưng không có đề cập đến việc phân lập các trường hợp EH trong báo cáo. Đã có báo cáo EH bùng nổ dịch nhỏ dẫn đến nhiễm trùng bệnh viện đe dọa tính mạng. Có tiền sử gia đình mắc AD.
Chẩn đoán EH chủ yếu khám lâm sàng, mặc dù một số xét nghiệm có thể có ích. Phiến phết Tzanck từ mụn nước có thể giúp chẩn đoán nhanh khi tìm thấy tế bào khổng lồ. Nuôi cấy virut từ dịch mụn nước mới và soi trực tiếp các tế bào bị nhiễm bệnh cạo từ tổn thương loét bằng DFA là các xét nghiệm chẩn đoán có lợi và đáng tin cậy nhất hiện nay. Nếu các tổn thương không điển hình, cũ hoặc không chắc chắn cần phải sinh thiết hoặc PCR.
Mặc dù EH là bệnh tự khỏi nhưng nhiễm vi rut máu có thể tổn thương đến nhiều cơ quan có thể dẫn đến nguyên nhân chính gây bệnh và tử vong. Vì vậy, nên được chẩn đoán và điều trị sớm. Phiến phết Tzanck là xét nghiệm nhanh nhất cho phép bắt đầu điều trị sớm và ngăn ngừa bệnh và tử vong.
Sử dụng thuốc chống vi rút và kháng sinh sớm là cực kỳ quan trọng; Điều trị không được trì hoãn khi chờ các xét nghiệm khác Uống Aciclovir 400-800 mg 5 lần/ngày, nếu Valaciclovir 1g 2 lần/ngày dùng từ 10-14 ngày hoặc cho đến khi lành thương tổn. Đối với những trường hợp EH nặng tiêm tĩnh mạch acyclovir. Sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn da thứ phát. Không bôi steroid nhưng có thể cần điều trị viêm da cơ địa. Khám chuyên khoa mắt khi có tổn thương mắt hoặc mi mắt.
KẾT LUẬN
Đây là một trường hợp EH điển hình với: hình ảnh lâm sàng thương tổn da và cận lâm sàng Tzanck test có tế bào đa nhân khổng lồ và HSV –DNA, và định type PCR: HSV1 –DNA: Dương tính. Trên bệnh nhân này với hình ảnh lâm sàng lúc đầu là dễ chẩn đoán nhầm với một số bệnh da khác. Đồng thời bệnh nhân này không có các bệnh lý da khác kèm theo. Đây là một trường hợp bệnh EH trên phụ nữ mang thai.
Tài liệu tham khảo
- Aysel Ö-B and et al (2015), “A Case of Eczema Herpeticum Occurring on the Lesions of Pemphigus Foliaceus”, Clinical Pediatric Dermatology, 1(1), pp.1-3.
2.Celtik C and et al (2011), “A Life-Threatening Condition In A Child With Chicken Pox: Eczema Herpeticum ”, Open Journal of Pediatrics, 1 (2011), pp.1-3.
3.Eunjung L K and et al (2017), “Eczema herpeticum in early pregnancy” Joule Inc,189(13), pp E505.
4.Manisha N (2013), “case report eczema herpeticum – in an adult”, Journal of Evolution of Medical and Dental Sciences, 2(52), pp.10328.