CHẨN ĐOÁN TẾ BÀO HỌC BỆNH HERPES
Nguyễn Hoàng Ân
Herpes simplex virus (herpesviruses loại 1 và 2) thường gây nhiễm trùng tái phát ảnh hưởng đến da, miệng, môi, mắt và bộ phận sinh dục. Các bệnh nhiễm trùng nặng thường gặp gồm viêm não, viêm màng não, herpes sơ sinh và, ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, nhiễm trùng lan tỏa. Nhiễm trùng ngoài da gây ra từng cụm bọng nước nhỏ và đau trên nền các ban đỏ. Chẩn đoán lâm sàng; xác nhận phòng thí nghiệm bằng nuôi cấy, PCR, miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, hoặc xét nghiệm huyết thanh học có thể được thực hiện và tế bào học.Tế bào học là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, dễ thực hiện mà độ đặc hiệu và độ nhạy khá cao trong bệnh này.
Trong xét nghiệm tế bào học bệnh herpes nếu tế bào ly gai dương tính thì cần tìm tế bào đa nhân khổng lồ vì nó thường xuất hiện đầu tiên. Giống như mô bệnh học xác định tế bào đa nhân khổng lồ có ba nhân hoặc nhiều hơn (Hình 1).
Tế bào ly gai đi kèm với tế bào đa nhân khổng lồ là một dấu hiệu của bệnh Herpes. Tìm thấy những tế bào này độ đặc hiệu cao với bệnh Herpes (100%). Kết quả này thì độ nhạy thay đổi từ 53% đến 86% phụ thuộc vào loại và thời gian của tổn thương của bệnh Herpes. Ba ngày đầu tiên, tìm thấy các tế bào này đạt đến 100%, nhưng nó giảm sau ngày thứ ba. Bệnh phẩm tế bào được lấy từ các mụn nước mới, xét nghiệm tế bào học chỉ cho thấy tế bào ly gai và tế bào đa nhân khổng lồ, không có tế bào viêm. Ngược lại, nếu mẫu được lấy từ một tổn thương có mụn mủ hoặc vảy tiết, Khi soi tế bào không chỉ thấy tế bào ly gai mà còn thấy tế bào viêm như bạch cầu đa nhân trung tính và lympho bào. Thời gian của các tổn thương lâu, tỷ lệ tìm thấy tế bào ly gai và tế bào đa nhân khổng lồ giảm. Do đó tỷ lệ tìm thấy tế bào ly gai và tế bào đa nhân khổng lồ cao ở tổn thương mụn nước và thấp ở tổn thương mụn mủ và vảy tiết (Hình 2, 3, 4 và 5). Ngoài ra, tế bào hoại tử được nhìn thấy ở các tổn thương mụn nước xuất huyết hoặc tổn thương vảy tiết hoại tử (Hình 6 và 7).
Mặc dù trong bệnh herpes tìm thấy phổ biến nhất là các tế bào ly gai và tế bào đa nhân khổng lồ, nhưng tìm thấy thể vùi trong nhân là đặc trưng nhất của bệnh này (loại Cowdry A). Trong một nghiên cứu về tổn thương vết chợt- mụn-bọng nước, thể vùi được tìm thấy 9,8% ở bệnh nhân herpes zoster, nhưng không tìm thấy thể vùi ở bệnh nhân vết chợt- mụn-bọng nước khác. Nhuộm tế bào học thông thường như MGG và Diff Quick rất khó nhìn thấy thể vùi này, nó trông giống như những quả trứng trong giỏ. Tuy nhiên, chúng có thể nhìn rõ với nhuộm papanicolaou (Hình 9 và 10).
Hình 1.(a) Hình ảnh mô bệnh học tổn thương mụn nước của bệnh herpes simplex nhìn thấy bọng trong thượng bì và tế bào đa nhân khổng lồ (HE × 400).
Hình 1 .(b).Tế bào đa nhân khổng lồ có nhân hợp bào, mẫu được lấy từ tổn thương mụn nước của herpes môi (MGG × 1000).
Hình 2. Mụn nước thành chùm do nhiễm virus herpes simplex bên má phải
Hình 3. Tế bào ly gai (mũi tên đen) và tế bào đa nhân khổng lồ (mũi tên đỏ), mẫu lấy từ tổn thương mụn nước do nhiễm herpes simplex (MGG × 1000)
Hình 4. Mụn nước và mụn mủ thành chùm ở trên và xung quanh môi do nhiễm trùng herpes simplex
Hình 5. Tế bào ly gai (mũi tên đen) và tế bào đa nhân khổng lồ (mũi tên đỏ) trên nền cấu trúc sợi và tế bào viêm, mẫu được lấy từ tổn thương mụn mủ nhiễm herpes simplex (MGG × 1000).
Hình 6. Các mụn nước xuất huyết trên lưng bệnh nhân herpes zoster.
Hình 7. Xét nghiệm Tzanck thấy các tế bào hoại tử (mũi tên), mẫu được lấy từ tổn thương mụn nước xuất huyết của herpes zoster (MGG × 1000)
Hình 8. Tế bào ly gai (mũi tên đen) và tế bào đa nhân khổng lồ (mũi tên trắng) chứa thể vùi trong nhân (mũi tên đỏ), mẫu lấy từ tổn thương mụn nước do nhiễm herpes zoster (MGG × 1000).
Hình 9. Tế bào ly gai (mũi tên đen) chứa thể vùi trong nhân (mũi tên màu đỏ) , mẫu lấy từ tổn thương mụn nước do herpes môi (Papanicolaou × 1000).
Về mặt tế bào học, phương pháp nhuộm tế bào thông thường không thể phân biệt giữa bệnh herps simplex (HSV) và herpes zoster (VZV). Sự phân biệt này không chỉ quan trọng đối với chẩn đoán lâm sàng chính xác mà còn để xác định liều lượng thuốc kháng vi-rút khác nhau giữa VZV và HSV. Để phân biệt giữa hai bệnh này, xét nghiệm hóa mô miễn dịch hoặc miễn dịch huỳnh quang bằng cách sử dụng kháng thể đơn dòng chống lại HSV và VZV. Xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang, chẩn đoán bệnh herpes simplex nếu kháng thể đơn dòng chống lại vi rút herpes simplex dương tính và bệnh herpes zoster nhiễm trùng nếu kháng thể đơn dòng kháng thể chống lại virus herpes zoster là dương tính. Ngoài ra, phương pháp miễn dịch huỳnh quang gắn nhãn các kháng thể có thể nhận ra sự khác nhau của kháng nguyên nhân và bào tương của HSV-1 và HSV-2. Nhờ đó HSV-1 có thể được phân biệt với HSV-2 ở bệnh nhân bị nhiễm herpes simplex.
Phương pháp miễn dịch huỳnh quang và hóa mô miễn dịch rất quan trọng trong việc phát hiện nhiễm trùng Herpetic, đặc biệt ở bệnh nhân pemphigus. Tổn thương pemphigus mãn tính, có thế nhìn thấy một số tế bào đa nhân khổng lồ loại dị vật và các tế bào này có thể bị nhầm lẫn với các tế bào sừng đa nhân khổng lồ trong bệnh herpes (Hình 10). Một cách khác để xác định bệnh herpes là nhuộm papanicolaou tìm thấy thể vùi trong nhân.
Hình 10. Tế bào ly gai nhuộm dương tính với kháng thể kháng HSV-1 (a) tế bào khổng lồ đa nhân (b) trong xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang (kính hiển vi huỳnh quang miễn dịch × 1000).
KẾT LUẬN
Tế bào học ngày càng được các bác sỹ da liễu quan tâm mặc dù không thể thay thế cho mô học. Với một bác sỹ da liễu kinh nghiệm thì tế bào học hỗ trợ nhiều cho thiết lập các chẩn đoán lâm sàng ban đầu. Tế bào học củng cố cho giải phẫu bệnh mô học. Kỹ thuật này là giá rẻ, dễ thực hiện và rất ít xâm lấn cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ y tế (2016), Quy trình kỹ thuật chuyên ngành giải phẫu bệnh, tế bào học Các quy trình kỹ thuật tế bào học, Nhà xuất bản y học, tr. 379- 457.
2. Durdu M (2019), History of Cytology, Cutaneous Cytology and Tzanck Smear Test, Springer, PP.64-67.