ĐỀ ÁN 1816 SAU HAI NĂM THỰC HIỆN TRONG CHUYÊN KHOA DA LIỄU VÀ PHÒNG CHỐNG BỆNH PHONG KHU VỰC MIỀN TRUNG – TÂY NGUYÊN
Trong thời gian qua, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong cả nước nói chung, khu vực miền Trung – Tây nguyên nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên chất lượng công tác khám, chữa bệnh còn rất nhiều khó khăn ở tuyến dưới, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, Tây nguyên, vùng sâu, vùng xa. Hiện nay, lực lượng cán bộ y tế có tay nghề giỏi tập trung ở các thành phố lớn.
Nhiều bệnh nhân đáng lẽ được khám và điều trị ở tuyến dưới buộc phải chuyển lên tuyến trên, gây ra tình trạng quá tải ở các Bệnh viện tuyến Trung ương và khó khăn vất vả cho người bệnh.

Xuất phát từ khó khăn về khám, chữa bệnh, về theo dõi và đánh giá kết quả điều trị, về triển khai các kỹ thuật trong công tác phòng chống phong, da liễu, phòng chống nhiễm trùng cơ hội về da liễu trong HIV/AIDS của các tỉnh trong khu vực miền Trung – Tây nguyên; thực hiện chủ trương lớn của Bộ Y tế (Đề án 1816), Đảng ủy và Ban Giám đốc Bệnh viện Phong – Da liễu Trung Ương Quy Hòa xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm: nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, tạo điều kiện chuyển giao kỹ thuật, đào tạo tại chỗ cho tuyến dưới.
Từ tháng 10 năm 2008 đến nay, mặc dù còn rất nhiều khó khăn đặc biệt là nhân lực nhưng Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa đã lập kế hoạch và cử 72 lượt cán bộ luân phiên về các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc trong hơn 2 năm thực hiện đã thu được kết quả tốt đẹp.Từ tháng 10 năm 2008 đến nay, mặc dù còn rất nhiều khó khăn đặc biệt là nhân lực nhưng Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa đã lập kế hoạch và cử 72 lượt cán bộ luân phiên về các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Nông, Quảng Ngãi, Ninh thuận, trong hơn 2 năm thực hiện đã thu được kết quả tốt đẹp.

rong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ đi luân phiên đã nhận được sự ủng hộ và chỉ đạo hết mực của Ban giám đốc Bệnh viện, của Sở y tế các tỉnh đặc biệt là sự phối chặc chẽ giữa cán bộ chuyên môn đi luân phiên và cán bộ của các đơn vị. Hai đơn vị cùng nhau khảo sát nhu cầu kỹ thuật chuyển giao, ký kết hợp đồng trách nhiệm, xây dựng kế hoạch hỗ trợ luân phiên hàng năm và triển khai thực hiện. Cán bộ luân phiên đã khám, chữa bệnh cho 9.718 lượt bệnh nhân, tổ chức 162 lớp tập huấn cho 1.813 lượt cán bộ từ tuyến tỉnh đến xã, phẫu thuật cho 490 bệnh nhân tàn tật do phong. Có 18 danh mục kỹ thuật được chuyển giao cho tuyến trước: Hướng dẫn và thực hành khám, chẩn đoán, điều trị bệnh nhân da liễu, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh nhiễm trùng cơ hội da liễu trong HIV/AIDS; Kỹ năng phát hiện bệnh nhân phong mới, bệnh nhân phong kháng thuốc, bệnh nhân phong nhiễm độc thuốc; Chăm sóc bệnh nhân da liễu nặng; sử dụng Laser trong điều trị bệnh da liễu; phương pháp “Khám có hình ảnh lâm sàng” để phát hiện BN phong mới; Kỹ năng hướng dẫn tự phòng ngừa tàn tật cho bệnh nhân phong; Kỹ năng phát hiện và điều trị phản ứng phong; Kỹ năng trắc nghiệm cơ, thần kinh và cảm giác; Sử dụng giày phòng ngừa cho bệnh nhân phong, đào tạo kỹ năng sản xuất giày chỉnh hình theo phương pháp nướng xốp; hướng dẫn và thực hành phẫu thuật lỗ đáo cho bệnh nhân phong tại cộng đồng… Nhờ vậy đã giảm tỷ lệ bệnh nhân chuyển tuyến: năm 2008 là 2%, năm 2009 là 3% và tăng lên ở năm 2010 là 5%.
Tuy nhiên tại các tỉnh trên, hiện tại vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại cần phải tháo gỡ. Căn cứ kết quả khảo sát đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu kỹ thuật cần chuyển giao cho tuyến dưới, trong năm 2011 Bệnh viện tiếp tục cử 25 lượt cán bộ chuyên môn luân phiên về cơ sở để thực hiện đề án 1816 trong lĩnh vực khám chữa bệnh về Phong, da liễu, phẫu thuật và các bệnh STI. Dự kiến một số hoạt động và các kỹ thuật sẽ triển khai như sau: Kỹ năng chẩn đoán, điều trị bệnh nhân phong mới thể thần kinh rũng, thể nhiều khuẩn; Kỹ năng phát hiện và điều trị Reverse reaction và Erythema nodosum leprosum; Phẫu thuật lỗ đáo và phòng ngừa tái phát; “Khám có ảnh lâm sàng” ở vùng 4, vùng 3; Triển khai kỹ thuật làm giày bằng phương pháp nướng xốp; Triển khai kỹ thuật làm chân giả; Quản lý bệnh nhân phong bằng tin học; Nguyên tắc xử lý nhiễm trùng cơ hội da liễu trong HIV/AIDS; Xác định sớm mắc phong mới bằng phiếu khám sàng lọc; Phẫu thuật mắt và chỉnh hình hở mi; Xét nghiệm STD: lậu, nấm men, Clamydia Trachomatis; Chiến dịch phủ giày bệnh nhân làng phong ở 21 làng phong Gia lai.
Thực hiện Đề án 1816 của Bộ Y tế là thực hiện sự chia sẻ những khó khăn của tuyến trước, với người bệnh. Với tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước Lãnh đạo Bộ Y tế và trước người bệnh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa quyết tâm tổ chức hoàn thành Đề án 1816 năm 2011.
Ngày 27/04/2011
Nguyễn Thanh Tân