KHÁNG KHÁNG SINH XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Bs. Vũ Tường Vi
Kháng sinh có thể cứu sống chúng ta, nhưng bạn nên biết rằng bất cứ khi nào sử dụng kháng sinh cũng có thể gây ra tác dụng phụ và dẫn đến kháng kháng sinh.
Từ năm 1940, sự ra đời của kháng sinh đã làm giảm đáng kể bệnh tật và tử vong. Tuy nhiên, khi chúng ta sử dụng thuốc, vi sinh vật cũng phát triển các “vũ khí” chống lại các loại thuốc này. Chính điều này đã làm cho thuốc kém hiệu quả đi.
Thuốc kháng sinh điều trị nhiễm trùng do vi sinh vật
Vi sinh vật là những sinh vật sống rất nhỏ, giống như vi khuẩn. Hầu hết các vi sinh vật là vô hại, thậm chí có lợi cho con người, nhưng một số có thể gây nhiễm trùng và bệnh tật. Thuốc được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng này được gọi là thuốc chống vi trùng. Thuốc kháng khuẩn được biết đến nhiều nhất là kháng sinh, giúp tiêu diệt hoặc ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn.
Hai loại vi sinh vật
• Vi trùng gây bệnh như viêm họng do liên cầu khuẩn và ngộ độc thực phẩm do E.coli. Nhiễm trùng do vi trùng được điều trị bằng thuốc gọi là kháng sinh (như penicillin).
• Nấm gây ra bệnh như nấm kẽở chân của các vận động viên và nhiễm trùng nấm men. Nhiễm nấm được điều trị bằng thuốc gọi là thuốc chống nấm.
Làm thế nào vi sinh vật trở nên kháng thuốc và lây lan
Vi sinh vật (vi trùng và nấm) ở khắp mọi nơi. Một số có ích cho cuộc sống chúng ta, một số lại làm cho con người, mùa màng hoặc động vật bị bệnh. Trong đó, một số loại có khả năng kháng kháng sinh.
Kháng sinh diệt các loại vi sinh vật gây nhiễm trùng. Nhưng vi trùng kháng kháng sinh luôn tìm mọi cách để sống sót. Bên cạnh đó, thuốc kháng sinh cũng tiêu diệt các vi khuẩn có lợi thường bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng.
Vi sinh vật kháng kháng sinh có thể nhân lên. Một số vi sinh vật kháng thuốc cũng có thể “truyền” khả năng đề kháng của chúng với các vi sinh vật khác một cách trực tiếp.
Khi kháng kháng sinh xuất hiện, nó có thể lan từ môi trường này sang môi trường khác, giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cơ chế đề kháng của vi sinh vật
Kháng sinh tiêu diệt các vi sinh vật (vi trùng và nấm), nhưng vi sinh vật chống lại và tìm cách mới để sống sót. Chiến lược phòng chống của chúng được gọi là cơ chế kháng kháng sinh. Vi khuẩn phát triển cơ chế kháng thuốc bằng cách sử dụng các dữ liễu được cung cấp bởi DNA của chúng. Thông thường, các gen kháng được tìm thấy trong các plasmid, các đoạn DNA nhỏ mang hướng dẫn di truyền từ mầm này sang mầm khác. Điều này có nghĩa là một số vi khuẩn có thể chia sẻ DNA của chúng và làm cho các vi sinh vật khác trở nên kháng thuốc.
Ví dụ về các phương cách chống lại kháng sinh của vi sinh vật
Vi sinh vật có thể sử dụng các chiến lược phòng thủ để chống lại tác dụng của kháng sinh. Dưới đây là một vài ví dụ.
Cơ chế kháng thuốc |
Cụ thể |
Ngăn chặn đường vào của kháng sinh |
Vi sinh vật hạn chế bị tấn công bằng cách thay đổi lối vào hoặc giới hạn số lượng ở lối vào. Ví dụ: Vi khuẩn gram âm có lớp ngoài (màng) để bảo vệ chúng khỏi môi trường xung quanh. Những vi khuẩn này có thể sử dụng màng này để chọn lọc giữ cho thuốc kháng sinh không thể xâm nhập. |
Loại bỏ kháng sinh |
Vi sinh vật loại bỏ kháng sinh bằng cách sử dụng “máy bơm” trong thành tế bào của chúng để loại bỏ thuốc kháng sinh xâm nhập vào tế bào. Ví dụ: Một số vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa có thể tạo ra “máy bơm” để loại bỏ một số loại thuốc kháng sinh quan trọng khác nhau, bao gồm fluoroquinolones, beta-lactam, chloramphenicol và trimethoprim. |
Thay đổi hoặc phá huỷ kháng sinh |
Vi sinh vật thay đổi hoặc phá hủy kháng sinh bằng enzyme, protein phá vỡ cấu trúc của thuốc. Ví dụ: Vi khuẩn Klebsiella pneumoniae sản xuất enzyme gọi là carbapenemase, phân hủy thuốc carbapenem và hầu hết các loại thuốc beta-lactam khác |
Tránh tác dụng của kháng sinh |
Vi sinh vật phát triển các quá trình chuyển hoá tế bào mới, tránh sử dụng kháng sinh. Ví dụ: Một số vi khuẩn Staphylococcus aureus có thể bỏ qua tác dụng thuốc của trimethoprim |
Thay đổi mục tiêu của kháng sinh |
Nhiều loại thuốc kháng sinh được thiết kế để phát hiện và tiêu diệt các bộ phận (hoặc mục tiêu) cụ thể của vi khuẩn. Vi trùng thay đổi mục tiêu của kháng sinh, vì vậy thuốc không còn phù hợp và không thể thực hiện công việc của mình. Ví dụ: Vi khuẩn Escherichia coli có gen mcr-1 có thể thêm một hợp chất vào bên ngoài thành tế bào để thuốc colistin không thể bám vào nó. |