So sánh hiệu quả điều trị vẩy nến sinh dục mức độ nặng của Risankizumab và Ixekizumab
Người dịch: Quang Tiến
Theo các kết quả phân tích thực tế về hiệu quả điều trị và mức độ an toàn được công bố trên Tạp chí Journal of the European Academy of Dermatology and Venereology, kháng thể đơn dòng kháng interleukin(IL)-23 là risankizumab đạt kết quả tương đương kháng thể đơn dòng kháng IL-17A ixekizumab trong điều trị bệnh vẩy nến sinh dục mức độ nặng về.

Nghiên cứu đoàn hệ theo thời gian thực tế này bao gồm những bệnh nhân vẩy nến ở bộ phận sinh dục mức độ trung bình và nặng đến khám tại một phòng khám da liễu ngoại trú ở Hy Lạp. Bệnh nhân có thời gian sạch tổn thương từ 4 đến 16 tuần đối với điều trị toàn thân, hơn 3 năm khi điều trị với acitretin và 2 tuần trở lên đối với điều trị thuốc bôi tại chỗ. Họ chưa từng sử dụng các tác nhân sinh học nhưng có đủ điều kiện để sử dụng các loại thuốc sinh học điều trị thấp khớp tác dụng chậm.
Thông qua quy trình phân loại ngẫu nhiên, bệnh nhân được chỉ định dùng risankizumab (n = 20; tuổi trung bình: 53,1 ± 21,3) hoặc ixekizumab (n = 16; tuổi trung bình: 56,2 ± 20,8) ở liều lượng tiêu chuẩn. Bệnh nhân được theo dõi trong 6 tháng.
Các nhà nghiên cứu đã đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh, các triệu chứng lâm sàng và chất lượng cuộc sống (QoL) ở thời điểm ban đầu và sau 4, 16 và 24 tuần điều trị. Mức độ nghiêm trọng của bệnh được đánh giá bằng Thang điểm sPGA-G (Static Physicians Global Assessment for Genitalia), các triệu chứng lâm sàng được đánh giá bằng Chỉ số PASI (Psoriasis Area and Severity Index) và Điểm Itch-NRS (Itch Numerical- Rating-Score), và chất lượng cuộc sống được đánh giá với Chỉ số DLQI (Dermatology-Life-Quality-Index).
Nhóm bệnh nhân điều trị với risankizumab có thời gian mắc bệnh vẩy nến trung bình được định lượng thấp hơn. Cả hai thuốc sinh học này đều giúp bệnh nhân đạt được cải thiện đáng kể tương tự về điểm sPGA cũng như tất cả các điểm số đánh giá mức độ nghiêm trọng trong suốt thời gian theo dõi. Cụ thể, tỷ lệ hai nhóm bệnh nhân đạt điểm đánh giá về mức độ sạch tổn thương trên da ở bộ phận sinh dục đạt mức gần như rõ ràng hoặc rõ ràng (sPGA-G 0/1) tương tự nhau ở tuần 16 (68,8% ở nhóm ixekizumab so với 70,0% risankizumab) và tuần 24 (93,8% so với 95,0%, tương tự) (P> 0,05).
Từ thời điểm bắt đầu nghiên cứu đến tuần 24, tỷ lệ cải thiện trung bình của nhóm bệnh nhân điều trị với ixekizumab và risankizumab lần lượt là 89,8% và 93,1% theo Thang điểm sPGA-G, 93,5% và 95,2% theo Chỉ số PASI, 96,7% và 92,9% theo Điểm Itch-NRS, và 92,1% và 91,8 % theo Chỉ số DLQI (P> 0,05). Trong nhóm bệnh nhân điều trị với risankizumab, điểm sPGA-G trung bình giảm từ mức 3,8 (± 0,7) tại thời điểm bắt đầu xuống 0,8 (± 0,6) ở tuần 16 (P <0,05) và 0,3 (± 0,9) ở tuần 24 (P < .05). Ở những bệnh nhân được điều trị bằng ixekizumab, điểm sPGA-G trung bình giảm từ mức 4,1 (± 0,9) tại thời điểm bắt đầu xuống 1,1 (± 1,0) ở tuần 16 (P <0,05) và 0,4 (± 0,8) ở tuần 24 (P < .05).
Nhìn chung, có 02 bệnh nhân ở nhóm điều trị với risankizumab bị đau đầu nhẹ (10,0%) và 01 bệnh nhân ở nhóm điều trị với ixekizumab được báo cáo nhiễm trùng đường hô hấp trên (6,3%). Bất chấp những tác dụng phụ này, tất cả bệnh nhân được chỉ định vẫn tiếp tục điều trị.
Kích thước mẫu nhỏ, thiếu thiết kế mù và thời gian theo dõi ngắn là những hạn chế tiềm ẩn của nghiên cứu này. Do đó, các nhà nghiên cứu kết luận rằng “cần có nhiều hơn các nghiên cứu thực tế dài hạn nhằm cập nhật việc sử dụng ixekizumab và risankizumab” an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh vẩy nến sinh dục mức độ nặng.
Nguồn: dermatologyadvisor.com