Tác động của COVID-19 đối với bệnh nhân vẩy nến
Người dịch: Quang Tiến
Theo kết quả nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Journal of Cosmetic Dermatology, trong giai đoạn đại dịch COVID-19, nhiều bệnh nhân vẩy nến phải đối mặt với một số thách thức trong việc quản lý bệnh, bao gồm tái khám không đều đặn và sự thay đổi khi bắt đầu và ngừng sử dụng thuốc sinh học.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu phân tích 1526 bệnh nhân vẩy nến từ một phòng khám chuyên khoa da liễu ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các bệnh nhân được quản lý điều trị từ tháng 12/2019 đến tháng 8/2020. Trong phân tích này, các nhà nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đối với bệnh nhân vẩy nến về việc nhập viện và tuân thủ điều trị. Bệnh nhân được phân loại dựa trên ngày nhập viện của họ, tại các thời điểm là giai đoạn trước COVID-19 (PC; n = 1084), giai đoạn đầu của COVID-19 (EC; n = 196) và giai đoạn sau của COVID-19 (LC; n = 246).
Mặc dù một số bệnh nhân ngừng điều trị trong giai đoạn EC, nhưng sự sụt giảm đáng chú ý nhất xảy ra ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc sinh học. Khoảng 15,2% tổng số bệnh nhân từ giai đoạn PC (n = 165) đã nhập viện để điều trị với thuốc sinh học, bao gồm 17 bệnh nhân lần đầu điều trị với thuốc sinh học. Tổng số có 14/196 (7,1%) bệnh nhân trong giai đoạn EC đã nhập viện để điều trị với thuốc sinh học, trong đó có 03 bệnh nhân lần đầu điều trị với thuốc sinh học. Có 18 bệnh nhân vào cuối giai đoạn LC đang điều trị với thuốc sinh học, trong đó có 04 bệnh nhân lần đầu điều trị với thuốc sinh học.
Trong thời gian đại dịch, tất cả bệnh nhân vẩy nến đều bị gián đoạn thăm khám định kỳ ở một mức độ nào đó. Tỷ lệ gián đoạn điều trị cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc sinh học so với những bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp khác, bao gồm quang trị liệu, các liệu pháp tại chỗ và các phương pháp điều trị toàn thân không sinh học (P <0,001). Có khoảng 8,5% bệnh nhân được điều trị bằng thuốc sinh học trong giai đoạn PC đến tái khám ở giai đoạn EC và 18,1% bệnh nhân được điều trị bằng các liệu pháp khác đến tái khám trong giai đoạn EC.
Trong một phân tích về những bệnh nhân tiếp tục sử dụng thuốc sinh học so với những bệnh nhân ngừng hoặc bị gián đoạn sử dụng thuốc sinh học trong giai đoạn EC và LC, không có sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm về tuổi (P = .12), giới tính (P =. 31), thời gian mắc bệnh (P = 0,71), thời gian sử dụng thuốc sinh học (P = 0,51), điểm số PASI (P = 0,1), và sự hiện diện của bệnh viêm khớp vẩy nến (P = 0,13).
Các nhà nghiên cứu đã báo cáo sự biến thiên trong tỷ lệ bệnh nhân bắt đầu sử dụng thuốc sinh học giữa các giai đoạn trong nghiên cứu. Ví dụ, 10,2% bệnh nhân trong giai đoạn PC bắt đầu sử dụng thuốc sinh học là những người lần đầu sử dụng liệu pháp sinh học. Con số này tăng lên 21,4% trong giai đoạn EC và 22,2% trong giai đoạn LC.
Các hạn chế của nghiên cứu bao gồm tính chất hồi cứu của nó cũng như thiết kế đơn trung tâm chỉ bao gồm bệnh nhân từ một phòng khám da liễu ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà nghiên cứu tin rằng việc giảm số lượng bệnh nhân vẩy nến thăm khám định kỳ trong đại dịch COVID-19 có thể liên quan đến các quy định được đưa ra nhằm giảm tỷ lệ nhập viện trong giai đoạn EC và LC. Trong những giai đoạn này, bệnh nhân vẩy nến có thể được nhận thuốc sinh học theo chỉ định. Các nhà nghiên cứu cho biết thêm: “Việc giảm thăm khám định kỳ cho tất cả bệnh nhân vẩy nến có thể khiến tình trạng bệnh xấu đi, và điều này có thể gây ra sự gia tăng sử dụng thuốc sinh học như đã chỉ ra trong nghiên cứu của chúng tôi.”
Nguồn: dermatologyadvisor.com