Chuyên đề KCBPhong chuyên sâu
Thông tin về Bệnh Phong kháng thuốc và Hội thảo toàn cầu về Bệnh phong kháng thuốc 2016
Hội thảo thường niên toàn cầu về Bệnh phong kháng thuốc 2016 được tổ chức tại thủ đô Kathmandu, Nepal, từ ngày 27 đến 28 tháng 10 năm 2016.
Hội thảo này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2008 tại Hà Nội, Việt nam, lúc này chỉ có 6 quốc gia tham gia, đến nay đã tăng dần số lượng các nước tham gia, hội nghị lần này có 22 quốc gia đăng ký chương tình khảo sát bệnh phong kháng thuốc gồm: Châu Phi: N’Djamena, Abidjan, Congo, Maputo, Mali, Madagascar, Niger , Tanzania; Châu Mỹ: Brazil, Paraguay; Trung Đông: Iran, Morocco, Yemen; Bắc Á: Bangladesh, India, Indonesia, Myanmar, Nepal, Sri Lanka, khu vực Châu Á-Thái Bình dương: Trung quốc, Philippines và Việt Nam; Các đoàn thư ký của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) từ các vùng đại diện: Văn phòng khu vực Đông Nam châu Á, châu Phi, vùng Trung Đông; Các phòng thí nghiệm cộng tác của Trung tâm nghiên cứu phong Phong Nhật Bản, Viện Pasteur Paris, Pháp; Trung tâm nghiên cứu sức khỏe cộng đồng LEPRA Blue Peter, Ấn độ; Bệnh viện Đa khoa Lausanne, Thụy Sỹ; Phòng thí nghiệm tham chiếu Baton Rouge, LA. USA.
Tham dự hội thảo là các nhân viên chuyên trách phòng thí nghiệm Mycobacteria, chuyên gia các phòng thí nghiệm cộng tác, đại diện các Bộ Y tế và giám đốc Chương trình Phong Quốc gia các vùng của TCYTTG, đại diện Việt nam tham dự có PGS. TS Lê Hữu Doanh Phó Giám đốc Viện Da liễu Quốc gia và CN Nguyễn Phúc Như Hà, Trưởng khoa Sinh học Phân tử Bệnh viện Phong Da liễu TW Quy Hòa.
Mục tiêu của hội thảo nhằm vào 3 vấn đề chính: một là: Bàn luận về dữ liệu khảo sát bệnh Phong kháng thuốc (giai đoạn 2010-2015); hai là: Thảo luận về hỗ trợ kỹ thuật và “up date” bản hướng dẫn khảo sát bệnh phong kháng thuốc đã ban hành lần thứ nhất năm 2009; ba là: Đề ra Kế hoạch hành động về Chương trình khảo sát bệnh phong kháng thuốc ở cấp quốc gia, châu lục và toàn cầu trong thời gian tới.
– Dữ liệu về tình hình bệnh phong kháng thuốc ở một số quốc gia (2010-2015)
Tên nước | Số BN | Tái phát | Tái Phát sau MDT | Tái Phát sau Đơn hóa trị DDS | Số mẫu được thử nghiệm kháng thuốc | Kháng Rif | Kháng DDS | Kháng Oflo | Kháng Rif và DDS
|
Vietnam | 1654 | 51 | 11 | 3 | 62 | 0 | 5 | 0 | 0 |
Trung quốc | 6099 | 426 | 188 | 236 |
|
0 | 2 | 0 | 0 |
Philippines | 884 | 43 | 43 |
|
|
0 | 8 | 0 |
|
Myanmar | 17443 | 106 | 101 | 5 |
|
5 | 2 | 2 | 0 |
Indonesia | 106645 | 1115 |
|
|
40 | 1 | 8 | 0 | 1 |
Bangladesh | 14343 | 424 |
|
|
|
|
|
|
|
Srilanka | 8313 | 147 |
|
|
|
|
|
|
|
Yenmen | 2041 | 22 |
|
|
|
|
|
|
|
Brazil | 193021 | 9057 |
|
|
186 | 22 | 25 | 2 | 21 |
Paraguay | 1226 | 36 |
|
|
|
|
|
|
|
Colombia | 2494 | 249 |
|
|
49 | 6 | 6 | 1 | 1 |
Mali | 1534 | 958 |
|
|
23 | 3 | 9 | 0 | 0 |
Niger | 2490 |
|
|
|
|
|
|
|
|
Benin | 1336 |
|
|
|
|
|
|
|
|
Guinee | 2799 |
|
|
|
|
|
|
|
|
Tanzania | 13547 | 431 |
|
|
|
|
|
|
|
Madagasca | 9276 | 116 |
|
|
|
|
|
|
|
Cong gô | 23970 |
|
|
|
|
|
|
|
|
TCHAD | 2399 |
|
|
|
|
|
|
|
|
– Nhận định tóm tắt từ các phòng thí nghiệm cộng tác:
+ Tổng hợp từ các phòng thí nghiệm cộng tác và tham chiếu cho thấy: ngoài các đột biến đã được báo cáo trước đây đã thấy có thêm nhiều điểm đột biến mới xảy ra trên gen folP liên quan kháng Dapson tại vị trí Thr88Pro and Asp91His (Nora Cordona Cotonou 2012), trên gen rpoB tại vị trí Ala411Thr, Arg505Trp, Gln442His (Columbia 2012, SBL 2013).
+ Cảnh báo vi khuẩn M. lepromatosis một loài vi khuẩn cùng họ với vi khuẩn phong cũng đã kháng thuốc và gây nên bệnh cảnh tương tự bệnh phong đã gây một sự nhầm lẫn trong các trường hợp đồng nhiễm (Matsuoka và Kai, 2016)
+ Tại một số quốc gia Nam Phi đến nay chưa có trường hợp đa kháng, không thấy kháng Dapson thứ phát, có nhiều kháng Dapson nguyên phát (Cambau, 2014). Tuy nhiên tại Châu Âu và Tây Phi giai đoạn 2005 – 2011 không thấy kháng thuốc trên trường hợp phong mới, có 3 trường hợp kháng thuốc trên bệnh nhân tái phát tại Brazil. Giai đoạn từ sau 2011 cũng tại các quốc gia này tìm thấy 6.8% (31/454) chủng kháng thuốc, trong đó 18 trường hợp kháng Rifampicin, 13 chủng đa kháng với 2 hoặc cả 3 thuốc trong phác đồ MDT, điều này cảnh báo sự lan truyền chủng vi khuẩn đa kháng thuốc (Stewart Cole, Thụy sỹ).
+ Các kỹ thuật Multiplex PCR, realtime PCR HRM, Micro Array, Hydridization… là các kỹ thuật hỗ trợ cũng nên được áp dụng để phát hiện các đột biến. Kỹ thuật giải trình tự phát hiện đột biến liên quan kháng thuốc đã phát triển lên đến phân tích toàn bộ hệ gen
– Dự thảo những thay đổi và thông tin mới của Hướng dẫn khảo sát bệnh phong kháng thuốc sẽ được phát hành vào đầu năm 2017 gồm các nội dung chính như sau:
+ Giám sát bệnh phong kháng thuốc hiện nay được khuyến cáo trong chiến lược của Chương trình bệnh phong toàn cầu (GLP) 2016-2020.
+ Khảo sát kháng thuốc đã được thực hiện trên nhiều quốc gia với tỉ lệ từ 1% đến 10% các trường hợp tái phát. Trên tất cả các khu vực của WHO đã có kháng với một, hai và thậm chí ba loại thuốc trong MDT (đa kháng thuốc).
+ Trong thời gian tới, khảo sát kháng thuốc không chỉ 100% các trường hợp phong tái phát mà còn tiến hành trên các trường hợp bệnh mới, mục tiêu dự kiến là 10% số trường hợp phong mới.
Dự thảo quy trình khảo sát bệnh phong kháng thuốc như sau :

