So sánh các phương pháp điều trị miễn dịch toàn thân cho bệnh viêm da cơ địa
Người dịch: Quang Tiến
Hiệu quả của các phương pháp điều trị toàn thân cho bệnh viêm da cơ địa (AD) đã được báo cáo trong một nghiên cứu phân tích tổng hợp được công bố trên Tạp chí JAMA Dermatology. Trong số các liệu pháp được phân tích, abrocitinib 200 mg/ngày và upadacitinib 30 mg/ngày được chứng minh đạt hiệu quả cao hơn trong việc giảm các triệu chứng bệnh AD so với các phác đồ khác.
Nghiên cứu tìm kiếm các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đánh giá các phương pháp điều trị miễn dịch toàn thân cho bệnh AD từ những cơ sở dữ liệu về các thử nghiệm có đối chứng của Cochrane, MEDLINE, Embase, Cơ sở dữ liệu thông tin về khoa học sức khỏe Mỹ Latinh và Caribe, Cơ sở dữ liệu toàn cầu về Thử nghiệm EczemA, và các đăng ký thử nghiệm đến ngày 15/6/2021. Các thử nghiệm được xem là đủ điều kiện khi có sự tham gia của bệnh nhân mắc AD mức độ từ trung bình đến nặng và có thời gian điều trị ít nhất 8 tuần. Kết quả được quan tâm là những thay đổi về điểm số lâm sàng do điều tra viên báo cáo, bao gồm điểm EASI (Eczema Area and Severity Index). Các sự cố về tính an toàn cũng được ghi nhận. Kết quả về hiệu quả điều trị được tính toán dựa trên phương pháp phân tích tổng hợp mạng Bayes. Thực hiện đánh giá rủi ro sai lệch và chất lượng bằng chứng trong mỗi nghiên cứu nhằm mục đích xác định độ chính xác của kết quả tính toán.
Các phân tích bao gồm dữ liệu từ 60 nghiên cứu với sự tham gia của 16.579 bệnh nhân. Trong tối đa 16 tuần, bệnh nhân trưởng thành điều trị với abrocitinib 200 mg/ngày (sai phân trung bình [mean difference – MD], 2,2; khoảng tin cậy 95% [credible interval – CrI], 0,2-4,0) và upadacitinib 30 mg/ngày (MD, 2,7; 95% CrI, 0,6 -4,7) giúp giảm điểm EASI nhiều hơn so với dupilumab với liều lượng ghi trên nhãn (600 mg sau đó 300 mg trong mỗi 2 tuần). Ngược lại, abrocitinib 100 mg/ngày (MD, −2,1; 95% CrI, −4,1 đến −0,3), baricitinib 4 mg/ngày (MD, −3,2; 95% CrI, −5,7 đến −0,8), baricitinib 2 mg/ngày (MD, −5,2; 95% CrI, −7,5 đến −2,9), và tralokinumab 600 mg sau đó 300 mg trong mỗi 2 tuần (MD, −3,5; 95% CrI, −5,8 đến −1,3) có mức giảm điểm EASI ít hơn so với dupilumab. Nghiên cứu không tìm thấy khác biệt đáng kể về mức giảm điểm EASI giữa upadacitinib 16 mg/ngày và dupilumab. Kết quả so sánh giữa các phác đồ đều có độ chính xác cao. Các kết quả về hiệu quả điều trị khi sử dụng những công cụ đánh giá mức độ bệnh khác cũng tương đồng, bao gồm Thang điểm POEM (Patient Oriented Eczema Measure), Chỉ số DLQI (Dermatology Life Quality Index) và Thang điểm Peak Pruritus NRS (Peak Pruritus Numeric Rating Scales). Tất cả kết quả đều đạt độ chính xác cao.
Các biến cố về tính an toàn rất đa dạng. Abrocitinib 100 mg/ngày gây ra các biến cố bất lợi nghiêm trọng hơn so với dupilumab (tỷ số OR, 2,6; 95% CrI, 1,1-6,4), mặc dù bằng chứng về sự tương quan này có chất lượng thấp. Do dữ liệu không đồng nhất, không thể ước tính được sự khác biệt về mức độ bệnh khi ngừng dùng thuốc giữa các liệu pháp.
Nghiên cứu tổng hợp này cũng chỉ ra rằng bệnh nhân điều trị với abrocitinib 200 mg và upadacitinib 30 mg có kết quả đánh giá theo các thang điểm nói trên tốt hơn một chút so với dupilumab.
Hạn chế của nghiên cứu này bao gồm sự khác biệt giữa các nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu và các công cụ đo lường. Hơn nữa, có rất ít dữ liệu về các loại thuốc khác ngoài replicilumab, abrocitinib, baricitinib, tralokinumab và upadacitinib.
Nghiên cứu kết luận “Kết quả này có thể hỗ trợ bác sĩ điều trị và bệnh nhân AD mức độ từ trung bình đến nặng ra quyết định chọn phác đồ phù hợp nhờ vào đánh giá kết quả điều trị của các phác đồ khác nhau một cách tương đối chính xác”.
Nguồn: dermatologyadvisor.com